Lê Thái Tổ,(Tên là Húy Lê Lợi) là nhà lãnh đạo quan trọng khởi đầu cho sự nghiệp giải phóng nước nhà khỏi sự áp bức của quân Minh. Trong chiến nghĩa Lam Sơn, ông đã đoàn kết được những tâm huyết của những tướng lĩnh và nhân sĩ xuất chúng như Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Hãn, Lê Văn An, Lê Sát, Lưu Nhân Chú, và nhiều anh hùng khác, tổng cộng 50 tướng văn võ, trong đó có 19 người đã từng cùng nhau kết nghĩa anh em tại hội thề Lũng Nhai năm 1416.
Mở đầu vào mùa xuân năm Mậu Tuất 1418, Lê Lợi chính thức phát động khởi nghĩa Lam Sơn, tự xưng là Bình Định Vương. Sứ mệnh lịch sử của ông không chỉ dừng lại ở việc chiến thắng quân Minh mà còn đánh dấu sự lập nên triều đại Hậu Lê, kéo dài đến Lê sơ và Lê Trung Hưng, trở thành triều đại dài nhất trong lịch sử Việt Nam. Lê Lợi sinh năm 1385 và qua đời năm 1433, thọ 49 tuổi, để lại dấu ấn vững chắc trong lòng nhân dân Việt Nam.
Tiểu sử Lê Thái Tổ (Lê Lợi)
Lê Thái Tổ, tên thật là Lê Lợi, là một vị hoàng đế nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam, người sáng lập triều đại nhà Hậu Lê. Ông sinh năm 1385 tại Lam Sơn, nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa. Lê Thái Tổ nổi tiếng với cuộc khởi nghĩa Lam Sơn chống lại ách đô hộ của nhà Minh, kéo dài suốt 10 năm và kết thúc bằng việc giành lại độc lập cho dân tộc Việt Nam.
Lê Lợi được biết đến là một người có tài thao lược, có mưu lược cao thâm và lòng quyết tâm mãnh liệt. Ông là người khởi xướng và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ năm 1418 đến năm 1428. Sau 10 năm chiến đấu gian khổ, cuộc khởi nghĩa thành công, quân Minh bị đánh bại và rút khỏi lãnh thổ Đại Việt.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi vua, lấy hiệu là Lê Thái Tổ. Ông đã xây dựng và củng cố triều đại mới bằng nhiều chính sách cải cách quan trọng. Một trong những việc làm nổi bật của Lê Thái Tổ là tổ chức các lễ nhạc, mở khoa thi, và đặt cấm vệ để bảo vệ triều đình. Ông cũng đích thân ra thi văn sách, thể hiện sự chú trọng đến văn hóa và giáo dục của dân tộc.
Trong triều đại của mình, Lê Thái Tổ đã được phong hiệu đầy đủ là “Thuận Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế”. Đây là một danh hiệu cao quý, thể hiện sự kính trọng và ngưỡng mộ của người dân đối với ông.
Cuộc đời và sự nghiệp của Lê Thái Tổ đã được ghi chép lại trong nhiều tài liệu lịch sử, trong đó có sách “Lam Sơn Thực Lục”. Đây là một tài liệu quý giá, cung cấp nhiều thông tin chi tiết về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và triều đại Lê sơ. Ngoài ra, tên tuổi và công trạng của Lê Thái Tổ còn được khắc trên vách đá Pú Huổi Chỏ, một biểu tượng vinh danh sự nghiệp vĩ đại của ông.
Mộ vua Lê Thái Tổ hiện nay nằm ở Lam Kinh, Thanh Hóa. Đây là nơi linh thiêng, thể hiện lòng thành kính và niệm vua Lê Thái Tổ của người dân Việt Nam. Triều đại của Lê Thái Tổ đã mở ra một trang sử mới cho dân tộc, góp phần xây dựng một nước Đại Việt hùng mạnh và thịnh vượng.
Trong lịch sử Việt Nam, Lê Thái Tổ được xem là một vị anh hùng dân tộc, người đã có công lớn trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước. Những đóng góp của ông vẫn mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Tóm tắt: Nhà Lê Sơ (1428 – 1527).
Năm 1406 nhà minh lấy cớ phù Trần diệt hồ để mang quân sang xâm lược nước Đại Ngu,nhà Hồ khoogn được lọng dân nên đã nhanh chóng thất bại và năm 1407 cha con Hồ Quý Ly bị bắt sang Trung Quốc
Nhà Minh đật ách đô hộ nên đât Việt và biến nước ta thành quận Giao Chỉ, với sự bất bình trước ách đô hộ người việt nước ta ở khắp nơi nổi nên trong đó nổi nên mạnh nhất là của nhà Hậu Trần, những cuộc nổi nên rất mạnh mẽ đã có những lúc tưởng chừng đã lấy lại giang sơn Đại Việt tuy nhiên lý do thiếu sự đoàn kết của các thủ lĩnh nên không thành công, thời kỳ đó quân Minh mua chuộc gây chia rẽ nội bộ, giết hại rất tàn bạo nhằm đè bẹp mọi ý trí phản kháng của quân ta, mặc dụ như vậy do sự cai trị bóc lột của Nhà Minh người việt rất căm phẫn oán hận và ấp ủ chờ thời cơ nổi dậy. Năm 1418 người anh hùng Lê Lợi và các ahof kiệt đã phất cờ khởi ngĩa ở vùng núi Lam Sơn, Thanh Hóa rồi truyền hịch đi khắp nơi chiêu mộ người tài để chống quân Minh. Trong những năm đầu khởi nghĩa nghĩa quân Lam Sơn ít ỏi, lương thực còn nhiều thiếu thốn nên thường bị quân Minh đánh bại, nghĩa quân bị quân minh vây đánh 3 lần nên phải rút chạy nên núi Chí Linh để cố thủ và củng cố lực lượng, lúc đó Lê Lợi và quân thường ẩn láu trong rừng núi và pahir ăn rau củ rừng để cầm cự, có lần còn phải giết cả voi và ngựa để cho tướng sĩ ăn.
Năm 1424 theo kế của tướng Nguyễn Chích Lê Lợi quyết định nam tiến đưa quân đánh chiếm các thành ở Nghệ An Tân Bình và Thuận Hóa, cuộc nam chinh dành được nhiều thắng lợi quan trọng khiến quân minh phải rút vào trong các thành trì để cố thủ và cuối năm 1425 nghĩa quân Lam Sơn đã hoàn toàn làm chủ đất đai từ Thanh Hóa chở vào. Từ năm 1426 nghĩa quân bắt đầu tiến quan ra bắc nhằm chiếm lại thành Đông Quan và hoàn toàn đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi, trước sức mạnh của quân Lam Sơn nhà Mình nhiều lần cử quân chi viện theo đường Vân Lam và Quảng Tây sang cứu Đông Quan tuy nhiên đều bị nghĩa quân Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo đánh tan tác, sanh những chiến thắng vang rộn của quân Lam Sơn trong các trận Tốt Động Trúc Động và Chi Lăng – Xương Giang Nhà Mình buộc phải giảng hòa và rút quân về.
Năm 1427 Vương Thông (tướng nhà Minh) cùng hội thề trong thành Đông Quan rồi Lê Lợi cấp thuyền và ngựa cho quân Minh về nước. Lê Lợi có công dẹp giặc Minh giành lại giang sơn cho nước Việt nhưng ngày trước lấy cớ lập con cháu nhà Trần để giảng hòa với nhà Minh nên phải tôn Trần Cảo nên làm Vua, chiến tranh kết thúc lòng người hướng về Lê Lợi, Trần Cảo biết mình không có công nên bỏ chốn vào châu ngọc ma nhưng vẫn bị quan quân bắt về ép uống thốc độc chết.
Năm 1428 Lê Lợi nên ngôi hoàng đế (Lê Thái Tổ) lấy hiệu là Đại Việt đóng đô ở Đông Kinh, vúa Lê Thái Tổ sai quân sang nhà Minh để báo cái chết của Trần Cảo và xin phong vương vua Minh không nghe bắt phải lập con cháu nhà Trần. Xứ giả nhà Minh và Nhà Lê đi lại nhiều lần sau vua Minh cũng thuận phong cho vua Lê Thái Tổ làm vương từ đó lệ cứ 3 năm nước ta phải sang cống nhà mình một lần trong đó phải có 2 tượng bằng vàng gọi là Đại Thân Kim Nhân (lúc đánh trận ở Chi Lăng đã giết 2 tướng nhà Minh là Liễu Thăng và Lương Minh) đúc 2 người bằng vàng để thế mạng, việc cống nạp cho nhà Minh là việc bất đắc dĩ bởi vì nước ta so vơi Nhà Minh là nước nhỏ nếu không chịu chùn một tí thì sẽ không thể yên được lệ đó từ thờ tiên chúa Khúc Thừa Dụ đã có lệ này sau đó đến các chiều đại Đinh Tiền Lê, nhà Lý, Trần làm theo tuy phải nhận sắc phong vf chiếu cống nhưng thực tế trong nước vẫn tự chủ người Trung Quốc vẫn không xâm phạm tới nội bộ nước ta đấy cũng là một cách ngoại giao khôn khéo thần phục trên danh nghĩa để có được độc lập thật sự nhờ vậy mà nước ta đứng vựng được hàng nghìn năm bên cạnh một cường quốc luôn có tham vọng bành chướng. Vua Lê Thái Tổ khi nên ngôi đã phỏng thưởng các công thần bên văn thì Nguyễn Trãi Đứng đầu bên Quan võ thì Lê Vấn đứng đầu tất cả 227 người được ban quốc tính (tưc là phogn thưởng cùng họ với nhà vua) đất nước mới phát triển nên cần phỉ chỉnh đốn lại Vua Lê Thái Tổ rất chú trọng đến viếc học hành nên đặt trường Quốc tử Giám ở kinh đô để cho con cháu quan lại và thường dân ưu tú vào học mời thầy dạy học ở các phủ mở khoa thi cả văn lẫn võ để tuyển chọn nhân tài ra giúp nước, những người đi tu đạo phật đạo lão cũng phai đi thi kinh điển của đạo ấy ai đỗ thì với làm tăng ni, đạo sĩ ai không thi đỗ thì hoàn tục về làm ăn bình thường.
Vua xây dựng bộ luật mới dựa trên hình luật của nhà Đường có tội suy, tội chượng, tội đồ, tôi lưu và tội tử, về mặt hành chính thì vua chia thành 5 đạo, mỗi đạo đều có quan cai quản, về việc quân dân lúc đó ruộng đật còn nhiều trong tay địa chủ vua Lê Thái Tổ đặt ra phép quan điền để chia cho từ quan lại cho đên người già yếu đều có ruộng sau một thời gian sự chênh lệch giàu nghèo cải thiện rõ dệt, khi giặc Minh còn ở nước ta thì cần nhiêu binh mã lúc đó khoảng 25 vạn nay viêc chiến tranh đã kết thúc nhà vua cho 15 vạn người về quê để làm ăn chỉ giữ lại 10 vạn để phòng bị. 15 vạn quân đó chi thành 5 phiên, một phiên ở lại thường trực còn 4 phiên về làm ruộng lần lượt thanh nhau, thời vua Lê Thái Tổ có một số công thần bị sử tử như Trần Nguyên Hãn và Phạm Văn Xảo đây là hai danh tướng đã lập được nhiều công lao đi theo nhà vua, từ những ngày đâu khởi nghĩa rằng Trần Nguyên Hãn thấy vua Lê Thái Tổ có tướng giống như việt vương câu tiễn không thể chung yên vui được, cho nên xin từ quan về quê Thái Tổ chấp thuận cho nguyên hãn được về nhưng một năm hai lần lại phải vào chầu. ông về làng làm nhiều nhà, xây dựng bằng gạch hoa và đóng thuyền chở binh khí có người tổ cáo Trần Nguyên Hãn mưu phản. >>đồ đồng phong thuỷ
Lê Thái Tổ sai quân bắt về hỏi tội thuyền đi đến bến xã Đông Sơn, Trần Nguyên Hãn uất khấn trời rằng thần với hoàng thượng cùng mưa cứu nước nay nghiệp lớn đã thành hoàng thượng nghe lời rèm pha mà hại thần xin trời cao soi xét nói xong nhảy xuống sông tự vẫn. Năm sau có người nói Trần Văn Xảo ngầm mưu phản vu Lê Thái Tổ sai người bắt giết Phạm Văn Xảo và tịch thu tài sản, cái chết của Trần Nguyên Hãn Và Phạm Văn Xảo đến nay còn gây nhiều tranh cãi, một số sử gia cho rằng họ bị oan vì cho rằng vì vua tuổi già ấu chúa nên ngôi thì các đại thần sẽ có trí khác, một sô khác thì cho răng Trần Nguyên Hãn Và Phạm Văn Xảo trong vòng xoáy quyền lực triều đình thời nhà Lê thời hậu chiến.
Tháng 5 năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ, trong một hành động nhân đạo và công bằng, đã phê chuẩn quyết định ban biển ngạch công thần cho 93 người anh hùng đã có những đóng góp lớn trong cuộc kháng chiến. Sau đó, vị vua thông báo rằng “những văn võ hào kiệt nào bị bỏ sót, không được phong chức tước, hoặc không được đề cử, hoặc vì thù hằn mà bị đè nén, vùi dập, hãy tự mình đến gặp Thiếu phó Lê Văn Linh để tự tiến. Nếu được xác nhận có tài và đức, họ sẽ được mời tham gia trong hệ thống quan lý, không phân biệt giữa người quân nhân hay sĩ thứ, quan trọng là tài năng và đức tính của họ”.
Ngoài ra, vua còn đưa ra lệnh tiếp theo: “Những quân nhân ẩn dật ở núi rừng và những người có khả năng thông kinh sử, giỏi văn nghệ, hãy đến sảnh đường vào ngày 28 để kiểm tra và chờ ngày trình diện trong cuộc thi hội. Người nào đỗ sẽ được tuyển dụng.”
Trong tháng 6 cùng năm, vua tiếp tục chỉ đạo văn thần Nguyễn Trãi viết “Chiếu cầu hiền tài”. Bản chiếu nêu rõ quan điểm của vua về việc chọn lựa hiền tài và sự quan trọng của sự tiến cử. Vua nói rõ rằng việc cử hiền tài là quan trọng nhất trong việc duy trì và phát triển triều đại. Vua đã ra lệnh cho mọi người, từ quan lại tới các vị đại phu, cử một người có tài văn võ, có khả năng lãnh đạo và quản lý, và hứa hẹn thưởng cho những người xuất sắc. Thêm vào đó, vua cũng nhấn mạnh việc tìm kiếm tài năng không chỉ trong các quan lại, mà còn trong những người ẩn mình ở núi rừng, để mọi người có cơ hội thăng tiến dựa trên tài năng và phẩm chất của họ.
Năm 1430, vua Lê Thái Tổ đã điều Thái Tử Lê Tư Tề đến dẹp loạn tại vùng Đèo Cát Hãn, nơi mà tù trưởng là Đèo Cát Hãn đang gây rối và làm đảo lộn tình hình. Cát Hãn và con trai là Đèo Mạnh Vượng là hai nhân vật chính đứng đầu loạn lạc này.
Thông tin về cuộc dẹp loạn được ghi chép trong các tư liệu lịch sử không chỉ là một sự kiện quan trọng mà còn là biểu hiện của sự quyết đoán và tương tác của triều đại trong việc duy trì trật tự và an ninh trong đất nước. Cuộc chiến này có thể đã diễn ra do mâu thuẫn xã hội, sự phản đối chính sách của triều đại, hoặc những yếu tố khác đang ảnh hưởng đến tình hình nội bộ.
Đèo Cát Hãn và Đèo Mạnh Vượng có thể là những người có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng hoặc có những lợi ích riêng biệt mà họ muốn bảo vệ. Cuộc chiến dẹp loạn không chỉ là một cuộc đối đầu vũ trang mà còn là một cuộc thử thách cho khả năng lãnh đạo và quyết đoán của Thái tử Lê Tư Tề.
Tuy không có thông tin chi tiết về chiến dịch này, nhưng sự can thiệp của Thái tử và triều đại nhằm đảm bảo trật tự và ổn định trong vùng Đèo Cát Hãn là một phản ánh của chính sách quản lý mạnh mẽ của triều đại trong việc kiểm soát và giữ vững quyền lực trên toàn quốc. Điều này có thể được xem xét chi tiết hơn qua các tư liệu lịch sử và sách ghi chép của thời kỳ đó để hiểu rõ hơn về nguyên nhân và hậu quả của sự kiện này.
Lê Thái Tổ Mất Năm 1433
Vua Lê Thái Tổ trị vì được 5 năm trước khi trút hơi thở cuối cùng vào ngày 22 tháng 8 âm lịch năm 1433, năm ông hưởng dương 49 tuổi. Tưởng nhớ đến sự hy sinh của Lê Lai, người đã tự vì nước mình tại núi Chí Linh, vị vua này đã để lại một di chúc quan trọng: đời sau phải tổ chức lễ giỗ cho Lê Lai trước khi tổ chức lễ giỗ cho mình một ngày. Do đó, thế hệ kế tiếp truyền tụng câu ngạn ngữ nổi tiếng: “Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi”.
Lê Thái Tổ được an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Thái tử Lê Nguyên Long, lúc đó chỉ mới 11 tuổi, đã lên ngôi kế vị, trở thành vua Lê Thái Tông.
Thụy hiệu mà Lê Thái Tổ chọn cho mình là “Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức Thần Công Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hoàng Nghĩa Chí Minh Đại Hiếu Cao Hoàng Đế”.
Trên đây chúng tôi đã tổng hợp dữ liệu về cáo nguồn tin tức và đã giải đáp Lê Lợi là ai, Lê Thái Tổ và Lê Lợi là một người trước tên (Húy) là Lê Lợi sau khi nên ngôi lấy hiệu là Lê Thái Tổ, trợ thủ đắc lực quan văn Có Nguyễn Trãi, quan Võ có Lê vấn.
Audio Thời Nhà Lê Sơ (1428 – 1527).
>> Thời Kỳ Nhà Trần, Trần Hưng Đạo Là Ai?
>> tìm hiểu Trần Nhân Tông là ai
Mọi thông tin chúng tôi lấy từ nguồn có uy tín cao quý khán già có gì thắc mắc góp ý gửi vào hòm thư quangcao3dviet@gmail.com. Trân Trọng cảm ơn.
Mọi thông tin góp ý, bài viết về lịch sự nước Việt chúng gửi về mail quangcao3dviet@gmail.com chúng tôi cân nhắc xét duyệt từ kho tàng lịch sử và tiến trình đăng bài sớm nhất theo tên tác giả đã gửi.
Liên Hệ
- Địa chỉ cs1: Tòa nhà Hồ Gươm Plaza, Số 102 Trần Phú, Hà Đông, Hà Nội
- Địa chỉ cs2: Sao biển 23, Vinhome Ocean Park, Gia Lâm, Hà Nội
- Địa chỉ cs3: Shophouse 36, Khu Đô Thị Dệt May, Trần Phú, TP Nam Định
- Xưởng Sản Xuất: Đồng Quỹ, Nam Tiến, Nam Trực, Nam Định
- Điện thoại: 0919 862 002 / 0582 646 893
- Email: quangcao3dviet@gmail.com
- Trang web: xuongducdongnd.com
- Xem thêm video kênh Đồ Đồng Tường Phát